Đái tháo đường và rối loạn lipid máu liên quan với nhau như thế nào?
Chuyên gia viết bài: PGS.TS.BS. Nguyễn Thị Bích Đào
Phó Chủ tịch Hội Nội tiết – Ðái tháo đường Việt Nam. Phó Giám đốc Bệnh viện Tim Tâm Đức Tp HCM
Ngày cập nhật: 22/11/2024
Mục lục
- Bệnh đái tháo đường là gì?
- Đái tháo đường gây tác động đến sức khoẻ như thế nào?
- Đái tháo đường làm tăng nguy cơ rối loạn lipid máu
- Thế nào là cholesterol “tốt”, cholesterol “xấu” và triglyceride
- Những thành phần nào gây xơ vữa động mạch?
- Những ai có nguy cơ cao bị rối loạn lipid máu do đái tháo đường
- Điều trị rối loạn lipid máu ở những người có đái tháo đường típ 2
1. Bệnh đái tháo đường là gì?
Đái tháo đường là bệnh rối loạn chuyển hóa, có đặc điểm tăng glucose huyết (đường huyết) mạn tính, do khiếm khuyết về tiết insulin, về tác động của insulin, hoặc cả hai. Tăng glucose mạn tính trong thời gian dài gây nên những rối loạn chuyển hóa carbohydrate, protide, lipide, gây tổn thương ở nhiều cơ quan khác nhau, đặc biệt ở tim và mạch máu, thận, mắt, thần kinh.
Có 3 loại đái tháo đường chính: Đái tháo đường típ 1, đái tháo đường típ 2, và đái tháo đường thai kỳ (đái tháo đường khi mang thai). Đa số các trường hợp Đái tháo đường là Đái tháo đường típ 2 (90-95%).
2. Đái tháo đường gây tác động đến sức khoẻ như thế nào?
Hiện nay Đái tháo đường là một trong những bệnh không lây nhiễm phổ biến trên toàn cầu. Đái tháo đường gắn liền với nguy cơ tổn thương mạch máu, làm phát triển các bệnh lý thận, mắt, thần kinh, tim mạch và làm tăng nguy cơ tử vong.
Đái tháo đường có thể điều trị và kiểm soát được bằng cách thay đổi lối sống, sử dụng thuốc và kiểm soát các bệnh đồng mắc để ngăn ngừa, làm chậm sự tiến triển biến chứng, đảm bảo sức khỏe và kéo dài tuổi thọ.

3. Đái tháo đường làm tăng nguy cơ rối loạn lipid máu
Rối loạn lipid máu (cách gọi khác: rối loạn chuyển hóa lipid máu, rối loạn mỡ máu, rối loạn chuyển hóa mỡ máu), là tình trạng bệnh lý khi có một hoặc nhiều thông số lipid bị rối loạn (tăng cholesterol hoặc tăng triglicerid, hoặc tăng LDL-c, hoặc giảm HDL-c…).
Rối loạn lipid máu thường được phát hiện cùng lúc với một số bệnh lý Tim mạch – Nội tiết – Chuyển hóa. Có sự liên hệ giữa Đái tháo đường và Rối loạn lipid máu.
Người bị Đái tháo đường có xu hướng giảm cholesterol “tốt”, tăng cholesterol “xấu” và triglyceride. Người bị Đái tháo đường có Rối loạn lipid máu sẽ làm tăng nguy cơ bị xơ vữa động mạch, bệnh mạch tim mạch do xơ vữa, bệnh động mạch ngoại biên và đột quỵ sớm. Khoảng 70%-90% người đái tháo đường típ 2 có rối loạn lipid máu.
4. Thế nào là cholesterol “tốt”, cholesterol “xấu” và triglyceride
Lipid là thành phần quan trọng của màng tế bào, có nguồn gốc nội sinh được tổng hợp chủ yếu ở gan và nguồn gốc ngoại sinh chuyển hóa từ thực phẩm. Có 3 loại lipid chính lưu hành trong máu là cholesterol, triglycerid và phospholipid. Cholesterol có vai trò tham gia quá trình tổng hợp màng tế bào, tổng hợp vitamin D và là tiền chất của quá trình tổng hợp hormone.
Vì lipid nói chung và cholesterol nói riêng không tan trong nước nên để di chuyển trong hệ tuần hoàn, chúng cần kết hợp với các protein (apoprotein) tạo thành các nhóm lipoprotein. Có hai nhóm lipoprotein vận chuyển cholesterol chính là LDL-C (lipoprotein cholesterol tỷ trọng thấp) và HDL-C (lipoprotein cholesterol tỷ trọng cao).
LDL-C có nhiệm vận chuyển hầu hết cholesterol trong máu đến tế bào. Đây là loại cholesterol có liên quan đến quá trình gây xơ vữa động mạch nên được xem là cholesterol “xấu”. HDL-C có nhiệm vụ vận chuyển cholesterol ngược lại về gan để đào thải ra khỏi cơ thể. HDL-C cao giúp hạn chế nguy cơ xơ vữa động mạch. Vì vậy mà HDL-C còn được gọi là cholesterol “tốt”.
Quá trình tổng hợp, vận chuyển và thoái hóa cholesterol là một quá trình cân bằng để đảm bảo cơ thể khỏe mạnh. Khi quá trình này mất cân bằng sẽ dẫn đến rối loạn lipid máu, hậu quả là làm tăng nguy cơ mắc bệnh tim mạch, đau tim và đột quỵ.

Triglyceride là loại chất béo phổ biến, cũng là nguồn năng lượng dự trữ của cơ thể. Triglyceride có thể từ chế độ ăn hoặc do gan tạo ra
Khi ăn một số thực phẩm, triglyceride sẽ được ruột hấp thụ và được vận chuyển trong máu để đến các mô tế bào, nhằm cung cấp năng lượng hoặc dự trữ để sử dụng sau này.
5. Những thành phần nào gây xơ vữa động mạch?
Ngoài LDL-C, các cholesterol “tồn dư” như VLDL-C cũng góp phần đáng kể trong việc hình thành các mảng xơ vữa động mạch.
Tất cả các cholesterol có tiềm năng gây xơ vữa được gọi là Non HDL-Cholesterol, bao gồm LDL- C, VLDL-C, IDL-C, phản ánh tổng lượng cholesterol “xấu” và lượng cholesterol “tồn dư”.
Chỉ số Non HDL-Cholesterol càng cao, nguy cơ tiến triển mảng xơ vữa động mạch càng lớn.
Kiểm soát tốt nồng độ triglyceride trong máu là một trong những giải pháp để kiểm soát tốt chỉ số Non HDL-C.

6. Những ai có nguy cơ cao bị rối loạn lipid máu do đái tháo đường
Những yếu tố nguy cơ dẫn đến rối loạn lipid máu ở bệnh nhân Đái tháo đường típ 2.
- Tuổi cao
- Ít vận động
- Béo phì
- Tăng huyết áp
- Lượng đường trong máu cao
7. Điều trị rối loạn lipid máu ở những người có đái tháo đường típ 2
Điều trị bao gồm không dùng thuốc và dùng thuốc.
Thay đổi lối sống (điều trị không dùng thuốc) là biện pháp bắt buộc và hiệu quả để làm giảm cholesterol máu. Thay đổi lối sống bao gồm chế độ ăn phù hợp, tăng cường vận động, duy trì cân nặng hợp lý, giảm cân nếu bị thừa cân béo phì, không hút thuốc lá và tránh tiếp xúc với khói thuốc lá. Thay đổi lối sống giúp cải thiện nhiều yếu tố nguy cơ, có lợi cho kiểm soát đường huyết, huyết áp và sức khỏe chung.
Bên cạnh thay đổi lối sống, việc dùng thuốc cũng cần thiết để làm giảm bệnh lý tim mạch do xơ vữa.
Các thuốc dùng để điều trị rối loạn lipid máu do đái tháo đường bao gồm statins, fibrates,…
Statins:
Gồm atorvastatin, rosuvastatin, simvastatin,… giúp giảm LDL-Cholesterol trong máu
Nghiên cứu đã cho thấy giảm biến cố tim mạch khi sử dụng statin ở người có đái tháo đường típ 2. Statins thường dễ dung nạp, nhưng vẫn cần lưu ý ở người lớn tuổi, và những thuốc tương tác với statins.

Fibrates
Gồm fenofibrate, ciprofibrate, bezafibrate,… giúp giảm triglyceride và tăng HDL-Cholesterol trong máu.
Đặc biệt riêng fenofibrate qua các nghiên cứu lâm sàng còn cho thấy khả năng làm giảm tiến triển bệnh võng mạc do đái tháo đường típ 2 ở giai đoạn sớm.
Phối hợp statin với fibrate giúp phòng ngừa biến cố tim mạch cho người có đái tháo đường típ 2 có tăng triglyceride.
Xem thêm:
- Vì sao cần quan tâm hơn đến bệnh võng mạc đái tháo đường?
- Thông tin hữu ích về tiêm phòng cúm cho người bệnh đái tháo đường và người chăm sóc (hần 1)
- Biến Chứng Tiểu Đường Ở Mắt: Nguyên Nhân, Triệu Chứng, Phòng Ngừa